Quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,...
1. Quan niệm về đánh giá
theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh
Hiện nay có nhiều quan niệm về năng lực, theo OECD: Năng lực là khả năng
đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể;
theo Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá
nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn
luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc
tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một
loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.
Với những quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập theo định hướng tiếp cận
năng lực cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình
huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá
kiến thức, kĩ năng và thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh giá kết quả
học tập của học sinh đối với các môn học và hoạt động giáo dục theo quá trình
hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ
thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng, thái độ và năng lực, đồng
thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của học sinh.
Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá
kiến thức, kĩ năng, đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so
với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Để chứng minh học sinh có năng lực ở một mức
độ nào đó, phải tạo cơ hội cho học sinh được giải quyết vấn đề trong tình huống
mang tính thực tiễn. Khi đó học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng
đã được học ở nhà trường, vừa sử dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được
từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình, cộng đồng và xã hội) để
giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm
vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả khả năng
nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt
khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục của
từng môn học như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hóa, kết
tinh kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được
hình thành từ nhiều môn học, lĩnh vực học tập khác nhau, và từ sự phát triển tự
nhiên về mặt xã hội của một con người.
Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực
người học và đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học như sau:
Một số điểm khác biệt giữa đánh giá tiếp cận nội dung (kiến thức, kĩ năng)
và đánh giá tiếp cận năng lực
STT
|
Đánh giá
theo hướng
tiếp cận
nội dung
|
Đánh giá
theo hướng
tiếp cận
năng lực
|
1
|
Các bài kiểm tra trên giấy được thực hiện vào cuối
một chủ đề, một chương, một học kì,...
|
Nhiều bài kiểm tra đa dạng (giấy, thực hành, sản
phẩm dự án, cá nhân, nhóm…) trong suốt quá trình học tập
|
2
|
Nhấn mạnh sự cạnh tranh
|
Nhấn mạnh sự hợp tác
|
3
|
Quan tâm đến mục tiêu cuối cùng của việc dạy học
|
Quan tâm đến đến phương pháp học tập, phương pháp
rèn luyện của học sinh
|
4
|
Chú trọng vào điểm số
|
Chú trọng vào quá trình tạo ra sản phẩm, chú ý đến ý
tưởng sáng tạo, đến các chi tiết của sản phẩm để nhận xét
|
5
|
Tập trung vào kiến thức hàn lâm
|
Tập trung vào năng lực thực tế và sáng tạo
|
6
|
Đánh giá được thực hiện bởi các cấp quản lí và do
giáo viên là chủ yếu, còn tự đánh giá của học sinh không hoặc ít được công
nhận
|
Giáo viên và học sinh chủ động trong đánh giá, khuyến
khích tự đánh giá và đánh giá chéo của học sinh
|
7
|
Đánh giá đạo đức học sinh chú trọng đến việc chấp
hành nội quy nhà trường, tham gia phong trào thi đua…
|
Đánh giá phẩm chất của học sinh toàn diện, chú trọng
đến năng lực cá nhân, khuyến khích học sinh thể hiện cá tính và năng lực bản
thân
|
2. Quan hệ giữa năng lực với
kiến thức, kĩ năng và thái độ
Với quan niệm về năng lực như đã nêu trên, trong quá trình học tập để hình
thành và phát triển được các năng lực, người học cần chuyển hóa những kiến
thức, kĩ năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra
trong môi trường mới. Như vậy, có thể nói kiến thức là cơ sở để hình thành năng
lực, là nguồn lực giúp cho người học tìm được các giải pháp tối ưu để thực hiện
nhiệm vụ hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. Khả năng đáp ứng
phù hợp với bối của thực tiễn cuộc sống là đặc trưng quan trọng nhất của năng
lực, khả năng đó có được dựa trên sự đồng hóa và sử dụng có cân nhắc những kiến
thức, kĩ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Những kiến thức là cơ sở để hình thành và rèn luyện năng lực phải được tạo
nên do chính người học chủ động nghiên cứu, tìm hiểu hoặc được hướng dẫn nghiên
cứu tìm hiểu và từ đó kiến tạo nên. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được
diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, trong đó các năng lực có trước được sử dụng để
kiến tạo kiến thức mới; và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt cơ sở để hình
thành những năng lực mới.
Kĩ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành, vận
dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một
môi trường quen thuộc. Kĩ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức,
những hiểu biết và trải nghiệm,… giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh
thay đổi.
Kiến thức, kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh
vực hoạt động nào đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kĩ năng trong một lĩnh
vực nào đó thì chưa chắc đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử
dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kĩ năng cùng với thái độ, giá trị, trách
nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề
phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.
3. Định hướng kiểm tra,
đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực
tập trung vào các định hướng sau:
(i) Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học (đánh
giá tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức
đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục
đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học (đánh giá quá trình);
(ii) Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực
của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến
thức, … sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn,
đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo;
(iii) Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy
học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một
phương pháp dạy học;
(iv) Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử
dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ
khó, độ phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân
tích, lý giải kết quả đánh giá.
Với những định hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt động
giáo dục của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay cần
phải:
- Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng (theo định hướng tiếp cận năng
lực) từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần
đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ (theo định hướng tiếp cận năng lực) của học
sinh của cấp học.
- Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá
của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh
giá của gia đình, cộng đồng.
- Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận
nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.
- Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung
thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời
việc dạy và học.
Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên được
thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau:
a) Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh
năng lực của học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng (năng
lực) môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động
dạy và hoạt động học.
b) Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là
thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và
ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Yếu tố đổi mới ở mỗi
công đoạn này là:
(i) Thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều hình thức và bằng nhiều
phương pháp khác nhau (quan sát trên lớp, làm bài kiểm tra, sản phẩm học tập,
tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau,...); lựa chọn được những nội dung đánh giá cơ
bản và trọng tâm, trong đó chú ý nhiều hơn đến nội dung kĩ năng; xác định đúng
mức độ yêu cầu mỗi nội dung (nhận biết, thông hiểu, vận dụng,...) căn cứ vào
chuẩn kiến thức, kĩ năng; sử dụng đa dạng các loại công cụ khác nhau (đề kiểm
tra viết, câu hỏi trên lớp, phiếu học tập, bài tập về nhà,...); thiết kế các
công cụ đánh giá đúng kĩ thuật (câu hỏi và bài tập phải đo lường được mức độ
của chuẩn, đáp ứng các yêu cầu dạng trắc nghiệm khách quan hay tự luận, cấu
trúc đề kiểm tra khoa học và phù hợp,...); tổ chức thu thập được các thông tin
chính xác, trung thực. Cần bồi dưỡng cho học sinh những kĩ thuật thông tin phản
hồi nhằm tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy
học.
(ii) Phân tích và xử lý
thông tin: các thông tin định tính về thái độ và năng lực
học tập thu được qua quan sát, trả lời miệng, trình diễn,... được phân tích
theo nhiều mức độ với tiêu chí rõ ràng và được lưu trữ thông qua sổ theo dõi
hàng ngày; các thông tin định lượng qua bài kiểm tra được chấm điểm theo đáp
án/hướng dẫn chấm – hướng dẫn đảm bảo đúng, chính xác và đáp ứng các yêu cầu kĩ
thuật; số lần kiểm tra, thống kê điểm trung bình, xếp loại học lực,… theo đúng
quy chế đánh giá, xếp loại ban hành.
(iii) Xác nhận kết quả học
tập: xác nhận học sinh đạt hay không mục tiêu từng
chủ đề, cuối lớp học, cuối cấp học dựa vào các kết quả định lượng và định tính
với chứng cứ cụ thể, rõ ràng; phân tích, giải thích sự tiến bộ học tập vừa căn
cứ vào kết quả đánh giá quá trình và kết quả đánh giá tổng kết, vừa căn cứ vào
thái độ học tập và hoàn cảnh gia đình cụ thể. Ra quyết định cải thiện kịp thời
hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh trên lớp học; ra các
quyết định quan trọng với học sinh (lên lớp, thi lại, ở lại lớp, khen
thưởng,…); thông báo kết quả học tập của học sinh cho các bên có liên quan (Học
sinh, cha mẹ học sinh, hội đồng giáo dục nhà trường, quản lý cấp trên,…). Góp ý
và kiến nghị với cấp trên về chất lượng chương trình, sách giáo khoa, cách tổ
chức thực hiện kế hoạch giáo dục,...
Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả
mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát
triển năng lực, không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả
năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.
Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác
nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành; kết hợp
giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Kiểm tự luận thường đòi hỏi
cao về tư duy, óc sáng tạo và tính lôgic của vấn đề, đặc biệt là sự thể hiện
những ý kiến cá nhân trong cách trình bày, tuy nhiên không bao quát được hết
kiến thức chương trình giáo dục phổ thôngc và kết quả kiểm tra nhiều khi còn
phụ thuộc vào năng lực của người chấm bài. Kiểm tra trắc nghiệm khách quan với
ưu là thích hợp với quy mô lớn, học sinh không phải trình bày cách làm, số
lượng câu hỏi lớn nên có thể bao quát được kiến thức toàn diện của học sinh,
việc chấm điểm trở nên rất đơn giản dựa trên mẫu đã có sẵn, có thể sử dụng máy
để chấm cho kết quả rất nhanh, đảm bảo được tính công bằng, độ tin cậy cao. tuy
nhiên nhược điểm của hình thức này là không thể hiện được tính sáng tạo, lôgic
của khoa học và khả năng biểu cảm trước các vấn đề chính trị, xã hội, con người
của đất nước, nhiều khi sự lựa chọn còn mang tính may mắn. Do đó việc kết hợp
hai hình thức kiểm tra này sẽ phát huy được những ưu điểm và hạn chế bớt những
nhược điểm của mỗi hình thức kiểm tra.
Tài liệu tham khảo
1. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực
học sinh các môn học, Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2014.
3. Website: https://tusach.thuvienkhoahoc.com.
TS Đỗ Anh Dũng, Vụ Giáo dục Trung học